Nguyễn Duy Đảo
Học
viên Vô Tuyến khóa 8
Tôi
và Phương không chỉ là bạn đồng niên, đồng học mà còn là đồng đội thời kháng
Mỹ. Hết chiến tranh, hai đứa cùng về học Đại học Quân sự trên Vĩnh Yên.
Gần
ba chục năm sau ngày ra trường, vợ chồng Phương mời tôi ra thăm Hà Nội. Từ sân
bay Nội Bài đi xe Hàng không về phòng vé
đầu đường Quang Trung, Phương đón tôi ở đây. Sau cái bắt tay thật chặt hắn đẩy
tôi lên xe. Theo đường Tràng Thi ra Điện Biên Phủ, Phương cho xe chạy qua ngã
tư Trần Phú. Vẫn hai hàng sấu già quen thuộc, rồi vườn hoa Canh Nông có tượng
đài Lê-nin...
Xe
rẽ phải rồi dừng trước cửa nhà. Nga, vợ Phương, đã đứng đợi trước cổng. Đưa tôi
lên nhà, Nga nói: “Anh đi tắm cho khoẻ rồi lên dùng cơm. Đồ đạc cứ để đấy em
xếp!”. Bàn ăn rộng với nhiều món mà người Hà Nội thường dành đãi bạn bè thân
quen lâu ngày gặp lại. Phương bảo: “Hôm nay, Nga nghỉ nhà để chuẩn bị bữa ăn
đón cậu”. Thật cảm động trước tình cảm của gia đình bạn. Vợ chồng Phương giống
vợ chồng tôi chỉ có một đứa con. Cháu đã lớn, sau khi tốt nghiệp Học viện Quan
hệ quốc tế được gọi vào quân đội, hiện là sĩ quan Tuỳ viên quân sự tại Cu-ba.
Trước khi đi nghỉ, Nga và Phương thống nhất: “Những ngày ở Hà Nội, cậu có thể ở
đây với bọn mình, hoặc muốn tự do thì ra khách sạn. Chúng tớ có một khách sạn
nhỏ ở ngay dốc Hàng Than, đất do bố mẹ Nga cho rồi hai vợ chồng xây lên. Bọn
mình chuẩn bị sẵn cho cậu một phòng, xe máy cứ lấy mà đi. Ăn uống sáng và trưa
thì tuỳ nhưng bữa tối phải về đây ăn cơm!”.
Ở
Hà Nội đã được ba ngày. Nhanh thật! Chiều nay ngủ dậy muộn, tôi rời khách sạn
lững thững ra vườn hoa Hàng Đậu. Cứ thế bách bộ dọc đường Quán Thánh. Hồ Tây
đây rồi, mặt hồ lấp lánh trong nắng chiều. Đối diện đền Quán Thánh là công viên
Lý Tử Trọng. Con đường Thanh Niên quen thuộc ngày nào giờ đẹp hơn. Từng cặp
ngồi ôm nhau quay mặt ra hồ. Phía hồ Trúc Bạch thì nhà cửa san sát, đủ kiểu
kiến trúc chen lấn sát mặt hồ. Lần ra quán Bánh tôm Tây Hồ ngày xưa, vẫn còn
đây gốc si già quen thuộc. Tìm lại đúng vị trí thuở trước bọn tôi hay ngồi mỗi lần
về phép, sau khi gọi một phần bánh tôm tôi còn nhắn theo: “Nhớ cho chú nhiều
nước chấm đấy nhé!”. Cô bé phục vụ tủm tỉm cười mà chả hiểu cô cười vì cái nỗi
gì?
Đang
“gặm nhấm” những kỷ niệm cũ bỗng có tiếng phụ nữ: “Xin lỗi anh, hai chúng tôi
có thể ngồi đây được không?”. Tôi ngẩng lên, trước mặt là hai phụ nữ, họ không
còn trẻ nhưng đều đẹp. Tôi để ý cô lớn tuổi hơn có một nốt ruồi phía trên môi.
“Tôi chỉ có một mình. Xin mời hai chị!”, rồi kéo ghế mời khách. Họ cảm ơn. Sau
khi đã yên vị, cô ít tuổi nói: “Chị Hạnh ơi, hôm nay em chiêu đãi nhé! Chị chọn
món đi!”. Vừa nói cô vừa đưa thực đơn về phía bạn mình. (Chẳng hiểu sao hai
người phụ nữ kia lại chọn đúng cái bàn mà tôi đang ngồi, trong khi những bàn
khác gần đó còn trống? Chắc họ cũng có một kỷ niệm nào đó như tôi ở cái bàn này?).
… Ngay
lúc đầu, nhìn người phụ nữ lớn tuổi với nốt ruồi trên môi tôi đã nhớ mang máng đã
gặp chị ở đâu? Khi lục lọi trong bộn bề ký ức mà không thể nhớ đã gặp người phụ
nữ này trong hoàn cảnh nào. Họ chuyện trò tự nhiên. Tôi cố không chú ý đến câu
chuyện họ đang trao đổi. Chỉ loáng thoáng, họ là hai người bạn cũ lâu ngày gặp
nhau, một người vẫn ở Hà Nội, còn người kia hình như ở nước ngoài mới về. Bỗng
có tiếng chuông điện thoại, người phụ nữ ít tuổi xin lỗi bạn ra ngoài. Còn lại
người phụ nữ lớn tuổi, chị quay sang phía tôi: “Xin lỗi nếu có gì phiền mong
anh bỏ qua! Chúng tôi là bạn cũ lâu ngày gặp nhau. Ngày xưa chúng tôi thường
hay ngồi ở đây. Hôm nay biết là phiền anh nhưng chúng tôi không muốn vị trí
khác. Mong anh thông cảm!”.
-
Không sao, chị đừng bận tâm!
Lúc
này tôi mới có cớ để xen vào câu chuyện của họ:
-
Xin lỗi, chị tên là Hạnh?
-
Sao anh biết?
-
Tôi thấy người bạn của chị gọi như vậy… À, mà hơi tò mò một chút, nếu không
phải chị bỏ quá cho. Chị làm nghề giáo phải không?
- Ôi!
- Chị ngạc nhiên – À… vâng, ngày xưa, tôi từng là giáo viên, dạy văn nhưng bỏ
nghề lâu rồi.
- Có
thời gian nào chị dạy ở Trường cấp III Quảng Yên?
-
Trời! Sao anh biết? – Chị ta trân trân nhìn tôi.
Lúc
này thì tôi đã nhận ra trước mặt mình là người đàn bà mà tôi quen biết hơn ba
mươi năm trước. Đúng là cái tên Hạnh và nốt ruồi trên miệng đã làm tôi lờ mờ
nhận ra thọat đầu mới gặp.
-
Chị Hạnh! Chắc chị không còn nhớ em? Phan đây.
-
Trời ơi! - Người phụ nữ thảng thốt - Phan! Có thật Phan không? - Rồi hai tay
đưa lên ngang ngực như cố kìm nén cảm xúc của mình.
Chị
nhìn vào tôi với đôi mắt nước lồng quanh. Một khoảng lặng không ai nói một lời.
Chờ cho xúc động vơi đi, chị mới nói:
-
Hơn ba mươi năm rồi, Phan thay đổi thế này làm sao mà nhận ra? Nhiều năm qua chị
đã cố tìm Phan mà không gặp. Bây giờ Phan ở đâu? Cứ tưởng chiến tranh đã cướp
nốt Phan rồi…
Người
bạn của chị cũng ngạc nhiên không kém về sự gặp gỡ của hai chúng tôi, cô cứ để
cho chúng tôi trò chuyện. Vì chị đã có hẹn tối nay, còn tôi cũng không muốn để
vợ chồng Phương phải đợi cơm chiều. Cho chị số điện thoại, địa chỉ khách sạn, hẹn
gặp lại. Chúng tôi chia tay nhau.
... Quen chị Hạnh vào đầu
năm 1972 khi đơn vị tên lửa của chúng tôi cơ động về trận địa dự bị ở thị trấn
Quảng Yên. Quảng Yên là một thị trấn nhỏ, cách Hải Phòng khoảng 30–40 km, trên
đường đi Bãi Cháy.
Sau khi tốt nghiệp phổ
thông năm 1971, tôi nhập ngũ và được tuyển vào bộ đội tên lửa cùng một số sinh
viên. Đơn vị chúng tôi được lệnh gấp rút huấn luyện chuyển loại tên lửa mới.
Sau gần một năm huấn luyện, đơn vị được điều động về Hải Phòng, bảo vệ thành
phố Cảng, chuẩn bị đánh trả lại chiến dịch tập kích của không quân Mỹ cuối năm
1972. Trận địa nằm trên quả đồi nhỏ. Khi chúng tôi đưa khí tài về thì trận địa
đã được chính quyền địa phương huy động nhân dân góp công sức làm xong. Chỉ còn
việc triển khai đội hình và bắt đầu luyện tập các phương án tác chiến. Ngày ấy,
tôi là một chàng trai 18, cao 1m70, trắng trẻo đẹp trai, ham mê nhiều môn thể
thao, lại thêm gần một năm ăn uống tập luyện đầy đủ theo chế độ đặc biệt nên
càng vạm vỡ và sung mãn. Bên trong cơ thể cường tráng ấy là một tâm hồn tươi
trẻ, lãng mạn, đầy nhiệt huyết. Ngoài thời gian trực chiến, chúng tôi hay đá
bóng và hoạt động văn nghệ. Tối tối vẫn có kẻ chong đèn làm thơ, đọc tiểu
thuyết.
Tôi là uỷ viên Ban chấp
hành đoàn. Chi đoàn đơn vị kết nghĩa với chi đoàn Trường cấp III nơi chị Hạnh
dạy học. Chị là bí thư đoàn trường, lúc đó khoảng 24 hoặc 25, đã có chồng và có
một con gái nhỏ. Chồng chị tên Sơn, là hoạ sỹ, công tác ở Sở Văn hoá thông tin
tỉnh Quảng Ninh. Cơ quan mãi tận thị xã Hòn Gai, thỉnh thoảng vài tháng anh mới
về thăm nhà. Cháu gái tên Hương, mới hơn một tuổi… Tôi cũng không mấy quan tâm
đến đời tư của chị mà chỉ biết chị là người Hà Nội, là đồng hương. Do quan hệ
công tác nên hai chị em thân và quý nhau.
Đơn vị có tôi và Cường là
dân Hà Nội; ngày nghỉ chúng tôi thường ra nhà chị. Căn nhà cũ kĩ nằm bên trong
thị trấn, mái lợp ngói âm dương, phía dưới là bếp và công trình phụ, phía trên
có một căn gác xép đủ kê được một cái giường, một cái bàn làm việc và cái tủ
nhỏ, sàn nhà lát bằng gỗ. Trước nhà là khoảng vườn có cây dâu da to, bóng lá
phủ kín sân. Chị nói nhà này là của một gia đình học sinh, không có ai ở. Cách
đây hai năm sau ngày anh chị cưới, em học sinh nói với gia đình cho vợ chồng
chị mượn. Hàng ngày đi dạy học, chị gửi con cho bà cụ hàng xóm. Thường ra chơi với
chị vào sáng chủ nhật, khi thì giúp chị chẻ củi, khi thì giúp chị đi mua gạo,
xách nước hay sửa chữa lặt vặt trong nhà.
Từ 16 tháng 4 năm ấy, chúng
tôi bị cuốn vào những trận đánh. Suốt đêm 16, địch dùng nhiều loại máy bay, từ
nhiều hướng đánh vào Hải Phòng, kể cả máy bay ném bom chiến lược B.52. Đơn vị
tôi bắn không biết bao nhiêu quả đạn nhưng hiệu quả rất thấp do bọn Mỹ sử dụng
loại nhiễu mới, làm giảm khả năng phát hiện và điều khiển tên lửa. Suốt một
ngày một đêm mà đơn vị chỉ hạ được vài chiếc, trong khi đạn bắn lên với cơ số
lớn. Đơn vị bị thiệt hại nhiều, một phần ba số trận địa bị đánh phá, có trận
địa bị bom và tên lửa không đối đất san phẳng. Chưa từng thấy một chiến dịch
tập kích nào của không quân Mỹ ác liệt và kéo dài đến thế. Về cuối năm, mật độ
máy bay Mỹ hoạt động trên không phận Hải Phòng thưa dần. Chúng tôi được phổ
biến địch chuẩn bị lực lượng tập trung đánh lớn vào Hà Nội, tạo “quả đấm chiến
lược” buộc ta thay đổi một số điều khoản trong “Hội đàm bốn bên” tại Pa-ri. Đơn
vị tôi vẫn trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao.
Khoảng tháng 8 năm đó, vì
đã lâu không ra thăm chị Hạnh, hôm ấy là chủ nhật, Cường phải trực chiến tới 9
giờ mới hết ca, tôi hẹn: “Đã lâu rồi không ra thăm chị Hạnh. Chẳng biết mấy
tháng qua bom Mỹ ác liệt thế, gia đình có sao? Chị còn ở chỗ cũ hay đi sơ tán
theo trường? Tao ra trước, khi nào hết trực thì mày ra! Cứ tạt qua chỗ nhà cũ
xem sao!”. Qua đoạn đường nham nhở hố bom, một vài ngôi nhà bị bom làm sập và
tốc mái. Thị trấn vắng vẻ quá. Hàng cây cơm nguội dọc hai bên đường đang mùa ra
quả, những quả cơm nguội tròn nhỏ ly ty bằng đầu đũa chín đỏ, ẩn hiện trong vòm
lá xanh. Làm tôi nhớ lại tuổi thơ hay ngậm
cơm nguội thổi bắn nhau bằng ống tre, ống trúc… Thật may khi ra tới nơi thì chị
Hạnh có nhà. Thấy tôi, chị mừng lắm: “Thấy máy bay Mỹ đánh vào trận địa bọn em,
chị lo quá. Trường thì sơ tán ở xa, vừa lo dạy vừa lo đảm bảo an toàn cho học
sinh, chị không biết làm cách nào để tới thăm bọn em. Không biết có ai việc gì
không? Chị mới về lại thị trấn tuần trước, đang định vào trận địa thăm bọn em”.
Tôi nhìn quanh: “Bé Hương đâu hả chị? Anh Sơn có hay về?”. “Cháu chị gởi về
Thuỷ Nguyên với bà nội. Còn anh Sơn đã nhập ngũ, đang huấn luyện ở Mai Sưu, Hà
Bắc…”.
Thời gian trôi đi. Cuối
năm 1972, vì có thành tích trong chiến đấu, tôi được chọn về tập trung tại Trường
văn hoá của quân chủng, ôn luyện chuẩn bị thi đại học vào tháng 7 năm sau.
Trước khi đi học, đơn vị cho nghỉ phép về thăm nhà trong dịp Tết. Mùa đông năm ấy
thật lạnh, mưa phùn cộng với gió mùa đông bắc làm cho da thịt thêm tê tái. Nhận
giấy phép buổi chiều, sau khi chia tay anh em trong đơn vị, Cường đạp xe đưa
tôi ra bến để đón xe về Hải Phòng. Ra tới
nơi, hỏi người trực bến thì được biết chỉ còn chuyến xe cuối ngày, khoảng 6 giờ
tối mới chạy. Tôi nói với Cường: “Thôi, mày về đi! Cứ yên tâm, tao sẽ đem thư
và tới nhà thăm phụ huynh!”. Nhìn bóng Cường, gò lưng đạp xe ngược gió, khuất
dần sau dãy phố trong buổi chiều cuối năm u ám tự nhiên tôi thấy lòng mình buồn
tê tái…
Đến 6 giờ rồi 7 giờ mà chẳng
thấy chuyến xe nào. Bến xe vắng tanh. Phân vân xem có nên quay lại đơn vị rồi
sáng mai đi sớm, tôi quyết định chờ thêm lúc nữa. Tới 9 giờ thì mọi hy vọng đều
tiêu tan. Lòng bồn chồn phần vì đã lâu không được về thăm nhà, phần vì không
hiểu trong đợt đánh phá của không quân Mỹ vào Hà Nội cuối tháng Chạp vừa rồi
gia đình có làm sao? Việc được chọn đi học cộng với cấp trên cho nghỉ phép Tết
làm tôi xốn sang, hồi hộp. Nôn nao khó tả. Cho tới lúc này mới cảm thấy trống
trải, cô đơn. Đang lang thang không biết nên ở lại bến xe hay quay trở về đơn
vị, thì bỗng nhớ tới chị Hạnh. Việc quan trọng thế mà không báo cho chị, ít ra
thì cũng xem chị có nhắn hoặc gửi gì về nhà. Thật chẳng ra làm sao, thế mà cũng
mang tiếng chị em đồng hương thân thiết?! Tôi cảm thấy xấu hổ về sự bàng quan
của mình.
Xốc lại ba lô, kéo cổ áo cao
lên cho đỡ lạnh, tôi băng qua vài con phố nhỏ. Ánh đèn vàng hắt hiu. Đường phố
thưa thớt bóng người, hai dãy phố cửa nhà đóng im ỉm, thỉnh thoảng một vài nhà
có ánh điện le lói qua cánh cửa chớp khép kín. Từng đợt gió lạnh lùa những đám
lá rụng trên đường nghe xào xạc. Chẳng mấy chốc tôi đã đứng trước nhà. Thấy
trong nhà có ánh điện, tôi gõ cửa. Tiếng chị Hạnh hỏi vọng ra: “Ai đấy?”. “Em
đây, em Phan đây. Mở cửa cho em với!”, tôi nói qua khe cửa, rồi nghe tiếng bước
chân gấp gáp. Vừa mở cửa chị vừa ngạc nhiên: “Sao Phan ra chơi muộn thế, có
việc gì không em? Vào đi em!”. Đỡ ba-lô cho tôi, chưa kịp nghe trả lời, chị đã
hỏi: “Phan ăn cơm chưa, để chị nấu? Nhà có mì sợi, chị nấu mì với cà chua cho
Phan ăn”. Trong khi chờ chị chuẩn bị đồ ăn, tôi nói rõ hoàn cảnh của mình. Chị
nói: “Có gì đâu mà ngại. Cứ nghỉ lại đây, sáng mai ra bến xe cho tiện. Nhân thể
chị gửi lá thư chúc Tết và ít tôm khô về cho bố mẹ chị”. Ăn xong, chờ chị viết
thư và gói quà, tôi cho tất cả vào ba-lô gọn gàng theo thói quen người lính. Định
bụng sáng mai cứ thế “hành quân”, chẳng còn sợ quên gì.
Trên giường, bé Hương đã
ngủ từ chập tối. Sau khi trải chiếu xuống sàn gỗ và lục tìm một hồi kiếm cho
tôi chiếc chăn chiên, chị nói có phần ái ngại: “Thôi, Phan nằm tạm thế này nhé!”.
Tôi nói: “Chị đừng lo, em mặc cả quần áo cộng với chiếc chăn này cũng ấm chán.
Với lại bây giờ cũng đã hơn 10 giờ rồi, còn mấy tiếng nữa là sáng, chị cứ yên
tâm!”. Chị giục tôi đi ngủ. Lên giường với bé Hương, qua ánh sáng mờ mờ của
ngọn đèn ngủ, chị còn nói chuyện mãi. Nghe chị kể mới biết anh Sơn đã vào chiến
trường. “Thế là anh Sơn đã đi xa rồi, Phan ơi”, chị nghẹn ngào rồi im lặng. Trong
đêm nghe rõ tiếng chị thở dài và cả tiếng nấc. Từ lúc đó trở đi tôi không sao
ngủ được, phần thì háo hức sắp trở về nhà, phần vì lạnh, phần nghĩ về hoàn cảnh
của chị. Thương chị vô cùng. Ngoài trời từng đợt gió lùa qua tán lá của cây dâu
da, nghe tê tái. Đâu đó tiếng chim đêm khắc khoải.
Càng về khuya, trời càng
lạnh, tôi trằn trọc không sao ngủ được. Khoảng 1-2 giờ đêm đang thiu thiu, chợt
nghe tiếng chị khe khẽ: “Phan không ngủ được à? Có lạnh lắm không? Hay… Phan
lên giường ngủ với cháu cho đỡ lạnh?”. Vốn trong sáng và vô tư cộng với trời
quá lạnh, tôi nghe theo chị. Trên giường, chị nằm trong, bé Hương nằm giữa, còn
tôi nằm ngoài. Đang lạnh vớ được chăn bông ấm cộng với mùi thơm là lạ, đặt mình
xuống chỉ mấy phút tôi ngủ như chết, chẳng còn biết trời đất là gì.
… Trong giấc ngủ, tôi mơ màng
thấy đơn vị bị máy bay Mỹ tấn công. Bom và tên lửa bắn dữ dội vào trận địa. Cả
trận địa ngập trong lửa và máu. Người tôi nóng bỏng. Tôi như bị thương. Cơ thể
phía dưới bỏng rát. Hình như cả máu nữa. Thằng Cường ôm chặt lấy tôi, nó luồn
tay lần sờ khắp cơ thể như muốn xem còn bị thương chỗ nào. Và, nó cởi hết quần
áo tôi để cho cứu thương băng bó… Giật mình tỉnh giấc trong cái cảm giác nửa
tỉnh nửa mơ, mồ hôi vã ra. Rõ ràng trên cơ thể tôi là một cơ thể khác mềm mại
và nóng bỏng đang ghì chặt. “Trời ơi, chị Hạnh!”. Chị vội đưa tay lên bịt lấy
miệng tôi. (Tiếng kêu ấy trong tiềm thức hay vì ngạc nhiên, bối rối mà tôi kêu
lên?). Chị hôn lên môi, lên má tôi, chị hôn khắp cơ thể tôi. Bàn tay chị mềm
mại lướt trên da thịt tôi. Một cảm giác lâng lâng, bồng bềnh, lần đầu tiên
trong đời tôi biết. Lúc này lý trí hoàn toàn tê liệt, tôi chỉ còn hành động
theo bản năng, làm theo bàn tay hướng dẫn, chỉ bảo của chị. Mò mẫm, ngập ngừng
như một cậu học trò ngoan ngoãn. Dần dần chủ động hơn, tôi phản ứng lại mãnh
liệt tình cảm của chị dành cho mình. Tiếng chị rên khe khẽ. Chị cố kìm nén cảm
xúc. Sợ bé Hương tỉnh giấc mà tự lúc nào con bé đã được chuyển vào phía bên
trong. Dù với cái tuổi 18 đầy sung mãn, nhưng cũng bất lực trước cơn bão lòng
dữ dội của người phụ nữ một con lại xa chồng trong một đêm đông đầy tâm trạng.
Đêm ấy không biết bao
nhiêu lần tôi thức giấc. Mỗi khi tỉnh dậy thì mọi việc gần như đã an bài. Giống
như trận địa sau khi giao chiến, tôi chỉ còn như người lính hậu cần đi phía sau
làm nhiệm vụ dọn dẹp chiến trường. Chị chủ động tất cả. Rồi hai chúng tôi thiếp
đi... Mở mắt ra thì trời đã mờ sáng. Gỡ vòng tay chị đang ôm lấy mình, lồm cồm
bò dậy, mặc vội bộ quần áo. Lúc này cảm giác tội lỗi dâng tràn. Qua ánh sáng lờ
mờ của ngọn đèn ngủ khuôn mặt thân quen ẩn dưới mớ tóc đen dày xoã trên gối,
trông chị thật thanh thản. Tôi ôm vội chiếc ba-lô, nhẹ nhàng xuống thang gác. Lách
mình qua cánh cổng, sau khi thò tay chốt lại khoá bên trong, tôi đi như chạy ra
bến xe. May mắn vừa kịp chuyến xe sớm.
Mấy ngày nghỉ phép chóng
vánh trôi qua. Trở lại đơn vị, giống như con chim non sợ cành cong, tôi trốn
chạy không dám gặp lại chị, phải nhờ Cường đem thư và quà gia đình ra cho chị.
Trước khi đi học, tôi cũng không dám ra nhà để từ biệt. Sau khi tôi đi, đơn vị
cũng được lệnh hành quân di chuyển... Từ cái đêm đông giá rét năm 1972 ấy cho
tới hôm nay gặp lại chị vừa đúng 33 năm. Và chuyện ngày xưa tôi cũng đã quên,
không còn nhớ nữa…
Tối nay, chị hẹn tới thăm.
Đang chuẩn bị đồ uống để mời khách thì nghe tiếng chuông điện thoại. Đầu dây
bên kia có tiếng cô bé tiếp tân: “Chú có khách. Cô ấy tên là Hạnh”. “ Đúng rồi!
Cô ấy là khách của chú. Cháu mời cô lên!”. Có tiếng gõ cửa. Chẳng kịp để tôi ra
mở, chị đã ào vào phòng như một cơn bão. Chị nhào tới ôm lấy tôi. Chị gục mặt
trên vai tôi mà khóc. Đôi vai chị rung lên trong tiếng nấc. Tôi vô cùng bối rối.
Sự việc xảy ra quá nhanh làm tôi chẳng kịp phản ứng. Phải mất đến mấy phút để
cho những xúc động vơi đi, dìu chị ngồi xuống ghế, tôi lấy khăn lau nước mắt
cho chị. Mãi sau chị mới khẽ nói: “Đêm nay, chị ở lại với Phan được không?”.
“Chị ở đây cả tuần cũng được. Phan muốn nghe kể mấy chục năm qua chị đã sống ra
sao?”.
Đêm ấy, chúng tôi không
ngủ. Chị kể về quãng thời gian sóng gió, khó khăn và đầy biến cố của đời mình kể
từ ngày anh Sơn vào chiến trường. “… Và sau cái đêm “giông bão” mùa đông năm ấy,
rồi sau hiệp định Pa-ri về Việt Nam, miền Bắc trở lại sống trong hoà bình. Trường
từ nơi sơ tán trở về thị trấn, chị tiếp tục dạy học. Cuộc sống ngày càng khó
khăn. Cuối năm 1973, chị sinh cháu trai, giọt máu của anh Sơn để lại. Ngoài dạy
học, chị làm thêm đủ nghề để sinh sống, hết trồng rau, lại nuôi heo. Chị học
thêm cả nghề may để may gia công cho hợp tác xã. Cuộc sống cứ thế trôi qua cho
tới năm 1975, như bao người phụ nữ khác có chồng ra mặt trận chỉ mong ngày đón
người chiến thắng trở về. Chờ mãi, chờ mãi cho tới đầu năm sau thì nhận được
tin anh đã hy sinh. Chị đã khóc, khóc không còn nước mắt. Tinh thần suy sụp…”.
Chị nói thời gian ấy chẳng muốn sống nữa.
Cũng may học sinh và anh chị em giáo viên trong trường động viên, an ủi. Nhất
là khi nghĩ tới hai đứa con thơ còn bé dại mà chị đã vượt qua để sống và nuôi
con.
Cuối năm 1979, “sự kiện Nạn
kiều” rộ lên khắp trong Nam ngoài Bắc. Nhất là ở Hải Phòng và Quảng Ninh có làn
sóng người Hoa vượt biên. Trong trường có đồng nghiệp là người Hoa, thấy chị
khổ quá, sau khi phân tích đã khuyên chị nên đi, (nếu đi họ sẽ giúp vì họ cũng
tổ chức ra đi cho cả gia đình). Sau bao đêm suy nghĩ, cuối cùng chị quyết định đưa hai con xuống
tàu. Một năm sống tại trại tỵ nạn Hồng Kông, chị được tổ chức Di dân quốc tế
đưa tới Ca-na-đa. Ở đấy gần ba chục năm, cuộc sống bây giờ đã ổn định. Hai cháu
đã lớn. Hương đã lấy chồng và có công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán.
Cháu trai là chuyên viên của một công ty máy tính đa quốc gia, còn độc thân,
sống với mẹ. Chị đã nghỉ việc, hưởng trợ cấp, hàng năm thường về Việt Nam
thăm họ hàng.
Nhắc lại chuyện cũ, chị vô
cùng ân hận đã để xảy ra chuyện ngày xưa giữa hai chúng tôi. Chị cũng không
hiểu nổi vì sao lại có phút giây “điên loạn” như thế. Chị nói sau ngày ấy chị
đã tìm tôi để giải thích và mong tôi tha thứ mà không làm sao tìm được. “Còn
bây giờ chắc chẳng cần phải giải thích nữa, phải không Phan? Vì chúng ta đều
“đã lớn”, sự từng trải đã giúp chúng ta hiểu. Con người trong một hoàn cảnh cụ
thể nào đấy có những phút giây yếu đuối, chúng ta có thể tha thứ cho nhau”. Giọng
chị buồn buồn:
- Còn chuyện của chị và
Phan ngày xưa, nó có những éo le riêng mà chị đã chôn chặt trong lòng cho tới
tận hôm nay… Càng lớn Dũng, con trai chị, càng giống Phan. Và chị lờ mờ hiểu
rằng Dũng không phải là giọt máu của anh Sơn. Khi còn nhỏ và cho tới tận bây
giờ, hai đứa con chị luôn tin rằng bố của chúng là một người anh hùng đã hy
sinh cho Tổ quốc. Hai đứa rất yêu thương nhau và kính trọng chị. Chúng hiểu chị
đã hy sinh tất cả cho chúng… Có những sự thật khi nói ra, trái tim ta được giải
thoát, trở nên nhẹ nhõm và thanh thản. Ngược lại có sự thật thời gian qua đi,
ta không dám đụng chạm tới, cứ để yên như vốn dĩ từ trước đến nay và… phải thừa
nhận nó. Chị đã chọn cho mình cả hai giải pháp. Giải pháp thứ hai chị dành cho
hai đứa con. Còn giải pháp thứ nhất chị dành cho Phan. Dù cho Dũng không phải
là giọt máu của anh Sơn, một người anh hùng, thì nó cũng là giọt máu của một
người lính đã dâng hiến và hy sinh một phần tuổi trẻ của mình cho Tổ quốc mà
chị hết sức yêu quý.
Chị luôn cầu mong nếu như
Phan còn sống, chị sẽ tìm gặp được Phan. Và điều mong ước ấy đã trở thành sự
thực, một sự diệu kỳ như trong mơ. Cho đến bây giờ thì chị chẳng còn ân hận gì
nữa khi gặp lại Phan và nói cho Phan biết sự thật về câu chuyện của hơn ba chục
năm về trước.
T.p Hồ Chí Minh – Mùa mưa 2005
Bài này đã in sách nhưng đọc vẫn thấy sướng. Câu chuyện rất kịch tính, đầy trắc ẩn.
Trả lờiXóa