Mộ Anh hùng Liệt sỹ Nguyễn Phan
Thanh-Giáo viên trường Đại học kỹ thuật quân sự đặt tại nghĩa trang liệt sỹ thôn
Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Nghĩa trang liệt sỹ nằm giữa cánh đồng lộng gió . Hàng phi lao trồng hai bên cổng và quanh nghĩa
trang phủ bóng xanh mát, tiếng lá reo rì rào trong gió. Gần hai chục ngôi mộ của
những bậc tiền bối thời kháng chiến chống Pháp đã phủ rêu xanh. Duy nhất, ngôi
mộ của Liệt sỹ thời chống Mỹ cứu nước Phan Thanh là mới và kích thước có hơi rộng
hơn.
Mỗi lần có dịp về thăm nơi yên nghỉ Vĩnh
hằng của người đồng đội, đồng nghiệp kính mến, trong lòng tôi luôn trào nỗi
thương nhớ về người tổ trưởng bộ môn đầu tiên của mình thời tôi mới chập chững về
trường nhận nhiệm vụ làm giáo viên bộ
môn đạn thuộc khoa Cơ điện.
Đọc hàng chữ ghi họ tên và ngày hy sinh
của Liệt sỹ trên bia mộ, những kỷ niệm về thời chiến tranh chống Mỹ gian khổ nhưng
tươi trẻ, hăng say nhiệt tình hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy và sẵn sàng chiến đấu
giữa chúng tôi và anh Phan Thanh hiện lên đậm nét. Hình ảnh, tình tiết của ngày
anh Thanh hy sinh , tình cảm thương tiếc sâu nặng trong buổi hạ huyệt và xây mộ
cho anh làm lòng tôi chùng xuống, nước mắt muốn trào ra.
Đứng trước mộ anh Phan Thanh, trong phảng
phất mùi hương khói, tôi biết linh hồn người đồng đội của mình đang quanh quất
đâu đây. Trong đầu tôi mường tượng về một
ngôi Mộ Gió của những Anh hùng con dân đất Việt, vượt biển Đông ra khơi giữ yên toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Giữa sóng gió nghìn trùng nơi đảo xa, những nghĩa sỹ Hoàng Sa, Trường Sa không thể
trở về đất liền. Họ gửi thân xác mình
cho biển cả, chỉ có linh hồn về với đất Mẹ quê hương, quyện vào ngôi mộ gió
không có hài cốt. Những ngôi mộ gió linh thiêng là sự ghi công của nhân dân, Tổ
quốc cho sự hy sinh của những anh hùng khi họ cống hiến cả thân xác để hoàn
thành nhiệm vụ. Ngôi mộ của anh Phan
Thanh, người đồng nghiệp của tôi tại nghĩa trang liệt sỹ Thanh Lãng cũng thiếu
vắng hài cốt nên linh thiêng và có hình tượng
giống như ngôi MỘ GIÓ vậy.
***
Năm 1969. Khoa Cơ điện đang đóng quân tại
địa điểm sơ tán là thôn Đinh xá, xã Nguyệt Đức
huyện Yên Lạc. Bộ môn đạn năm đó ngoài các giờ giảng về đạn dược cho học
viên các lớp súng pháo thì không có đào
tạo học viên chuyên ngành. 6 học viên khóa chuyển tiếp từ trường bách khoa được
giữ lại trường làm giáo viên ( Nhận, Khuề, Ngọc, Lâm, Định, Kham) đang theo học
lớp bồi dưỡng thêm do chuyên gia Liên xô giảng tại Hà nội. Bộ môn đạn khi đó chỉ
có ba giáo viên là trung úy Phan Thanh, thượng
úy Trần Tam và thiếu úyTrần Đình Ngân. Tổ
trưởng Phan Thanh đặt ra kế hoạch công tác cho bộ môn là ngoài việc giảng cho
các lớp súng, pháo thì tập trung lo xây dựng mẫu, mô hình, trang thiết bị trực
quan để chuẩn bị năm sau đón học viên chuyên ngành. Các mẫu đạn dược hệ một của
Liên xô, Trung quốc chúng ta tiếp thu được bộ mẫu mới tinh của trường sỹ quan kỹ
thuật ( công trình B) nhưng các mẫu đạn dược hệ hai của Mỹ thì hầu như còn thiếu.
Việc sưu tầm các loại vũ khí hệ hai rất thu hút sự quan tâm của anh Phan Thanh.
Mùa Thu năm 1968, bộ môn Công binh-Công
trình quân sự của khoa Công trình (K4) trong lần đi khảo sát chiến trường vùng
Quảng Bình-Vĩnh Linh, có thu về một quả đạn pháo do hạm tầu của Mỹ bắn vào đất
liền nhưng không nổ. Các chuyên gia của K4 rất nhậy cảm, các anh phát hiện ra đặc
tính kỹ thuật độc đáo, khác hẳn về lý thuyết cấu tạo, tính năng tác dụng của quả
đạn này so với đạn hệ một nên bất chấp những khó khăn về vận chuyển, họ đã mang
về trường để nghiên cứu, học tập.
Trong giai đoạn này, việc khai thác tính
năng tác dụng của vũ khí Mỹ là hết sức cần thiết, khẩn trương để giúp việc phòng
tránh, hạn chế tác hại của vũ khí địch trên chiến trường đồng thời bổ xung phần
nguyên lý, lý thuyết thiết kế và khai thác cấu tạo cho viêc đào tạo chuyên ngành
của nhà trường ở bậc đại học.
Vì là hai chuyên ngành rất gần nhau, anh
Thanh thân quen và gần gũi với các anh bên khoa công trình nên việc khai thác
quả đạn 127mm, bộ môn đạn được K4 rủ cùng hợp tác. Là thời chiến , nhiều công
việc phát sinh không căn cứ vào mệnh lệnh hay công văn từ trên. Dựa vào ý thức
trách nhiệm của cán bộ, một khi nhận thức công việc có lợi ích cho sự nghiệp
chung là người ta hợp tác nhau cùng gánh vác và rất tự giác hoàn thành . Anh Thanh cùng tôi sang bàn kế hoạch và „ mặc
cả“ với K4. Chúng tôi nhận lời tìm cách
tháo bổ quả đạn, vẽ ra bản vẽ kết cấu trao cho K4 còn mình thì được giữ mẫu đạn để làm giáo cụ giảng dạy. Địa điểm
tháo đạn các anh bên K4 chọn và đào sẵn một hầm tăng xê dưới gốc cụm tre già
cách xa khu dân cư, sát với đầm nước ngoài rìa làng Thanh Lãng.
Để bạn đọc có thêm hiểu biết cơ bản, phổ thông về ngành vũ khí đạn,
qua đó hiểu ra rằng, để tìm hiểu khai thác kỹ thuật về vũ khí của địch là rất
khó khăn, đòi hỏi sự dũng cảm và thậm chí phải trả giá mới có kết quả, tôi viết
qua về quả đạn pháo sát thương 127mm của Mỹ. Pháo 127mm hạm tầu là pháo nòng
trơn không có rãnh xoắn( khương tuyến). Đạn pháo nòng trơn thì tốc độ bay không
nhanh, phù hợp với loại đạn có tính năng
nổ sát thương, ngòi nổ là loại lắp ở phần đầu đạn, nổ tức thì. Đạn vừa chạm
đất nổ ngay sẽ giúp các mảnh vỡ và uy lực của sóng nổ bay tán ra không gian chung quanh, gây sát
thương các mục tiêu trên mặt đất ở diện rộng ( gọi là bán kính sát thương lớn). Các đầu đạn có tính năng xuyên phá thì yêu cầu tác dụng khi chạm đất, đạn không nổ
ngay mà nổ chậm để có một thời gian chui sâu vào lòng mục tiêu, nổ om từ
bên trong, xuyên phá các công sự ngầm. Đạn
nổ chậm, ngòi kích nổ tốt nhất lắp ở đáy đạn.
Qua xem xét lý thuyết, đối chiếu với quả
đạn thực, các chuyên gia của chúng ta nhận
định rằng, 127mm có sự khác biệt lớn về cấu tạo: Trên đầu đạn ghi rõ có tính năng sát thương, ngòi đạn đáng ra
phải lắp ở đầu ( gây nổ ngay) nhưng thực tế lại lắp ở đáy. Ngòi đáy thường có cấu tạo cơ, ứng dụng lực quán tính nên chỉ có
thể gây nổ chậm mà không thể tạo ra nổ tức thì. Đây là hiện tượng rất mới và
khác biệt nên có thể suy ra: Dù lắp ở
đáy nhưng ngòi nổ của 127mm phải là loại có cấu tạo đặc biệt, bảo đảm chuyển động
„nhanh như điện“ chứ không thể theo cách
„chậm“ cơ học thông thường. Lý thuyết về
nguyên lý cấu tạo ghi trong các tài liệu hiện hành của Liên xô
hoàn toàn không đề cập tới hiện tượng này.
Nếu như có được một mẫu ngòi nổ quán
tính cho đạn pháo sát thương với nguyên lý cấu tạo mới, gây nổ tức thì như của 127mm- thì đây là bước khám phá rất lớn về lý thuyết. Việc
tìm ra sơ đồ cấu tạo sẽ giúp cho khai thác sử dụng và có thể vận dụng vào các
thiết kế chế tạo vũ khí mới, đồng thời khẳng định thêm về trình độ của các chuyên gia
Vũ khí-Đạn VN là đủ điều kiện và có tầm để đối phó với các thủ đoạn kỹ thuật mới
của Mỹ.
Hình dung ra sự hấp dẫn về kỹ thuật cũng
như lòng mong muốn tìm hiểu vũ khí của đối phương, giúp cho bộ môn có được một
mẫu đạn mới để đáp ứng nghiên cứu và giảng dạy cho học viên những khóa tới, anh
Phan Thanh vạch ra kế hoạch „mổ thịt 127mm“ rất cụ thể.
Anh Thanh vốn là giáo viên dạy môn-Chăm
sóc bảo quản đạn dược- của trường Sỹ quan hậu cần. Anh tốt
nghiệp hàm thụ khoa hóa của Đại học bách
khoa và được điều về khoa vũ khí phân hiệu hai ( ĐHKTQS hiện nay) dạy môn đạn
cho lớp Đạn chuyển tiếp. Những sỹ quan, cán bộ khoa học từ rất nhiều nguồn (
như tốt nghiệp các học viện quân sự ở LX, TQ hay các kỹ sư tốt nghiệp các trường
dân sư ở Đông Âu, các cán bộ khoa học kỹ thuật QS từ các quân binh chủng... )
được điều về công tác tại trường Đại học Kỹ thuật QS, những ai biết anh Thanh đều rất quý mến tính
hài hước, thẳng thắn và thần tượng sự hiểu biết sâu rộng, kiến thức đa năng của
anh . Một tập thể các trí thức giỏi của nhiều lĩnh vực mỗi khi có những bàn luận,
tranh cãi về học thuật, kiến thức, khi gặp
những vấn đề chưa ngã ngũ, mọi người đều tìm đến anh Phan Thanh để chờ sự phân
giải cuối cùng. Nhiều chuyện hóc búa, Đông Tây kim cổ, qua ý kiến giải đáp của
anh Thanh mọi người đều thấy chí lý và chuẩn xác.
Anh Phan Thanh tham gia quân đội từ thời
chống Pháp. Những năm trước hòa bình 1954, anh đã từng hoạt đông cách mạng trên đất Lào, Thái và Campuchia. Anh nói và viết rất
thành thạo tiếng của ba dân tộc này. Nhiều lần tôi đã chứng kiến anh sử dụng rất tốt tiếng Pháp, tiếng Anh và biết
cả chữ Nho. Do hoàn cảnh gia đình, dù anh có tuổi quân rất nhiều nhưng đến
1969, quân hàm trên ve áo vẫn là trung úy. Lớp trẻ chúng tôi khi nhận hàm thiếu
úy, ai cũng chăm sóc cho hai ve tiết đỏ thắm, ngôi sao con và cái vạch bằng thiếc
sáng bóng thì ngược lại, miếng tiết trên ve áo anh Thanh thâm kịt, hai ngôi sao
và vạch quăn queo đen xỉn. Hàm trung úy
của anh Thanh bền vững trên ve áo anh đến 9 năm liền! Gần gũi anh, tôi linh cảm có thể anh có những
nỗi buồn, khoảng lặng riêng tư nhưng tuyệt nhiên trong công tác của khoa và bộ
môn tôi luôn thấy anh nhiệt tình, đặc biệt trước đám trẻ chúng tôi anh tỏ ra mẫu
mực và rất đàn anh. Anh Thanh quý tôi và nhận nhiệm vụ giúp đỡ giáo dục tôi để
có điều kiện gia nhập hàng ngũ Đảng cộng sản.
Những lúc chỉ có hai anh em tâm tình, anh khen tôi thông minh , có kiến thức nhưng
phê tôi tự do nông nổi và tính cách còn
học sinh quá!
***
Sáng thứ 7 hôm ấy, do tuần trước đá bóng
với học viên C213 ở sân Văn Tiến tôi bị chấn thương nên khoảng 6 giờ, anh Thanh bảo tôi: Hôm nay
Ngân đau thì cứ ở nhà. Mình đi Thanh Lãng làm nốt công việc tuần trước. Việc
tháo quả đạn chắc hôm nay phải xong vì cái ốc đáy khi vặn đã thấy có vết lung
lay. Anh dừng lại, vấn điếu thuốc sâu kèn, rít, rồi dặn tiếp: Chiều nay xong việc
mình đạp xe thẳng về bên trường hậu cần, thằng cháu Thu từ tuần trước bị sốt
cao không biết hôm nay khỏi chưa. Sáng thứ hai mình sẽ có mặt trước giờ báo thức.
Tôi với trên bàn có gói bích quy mà hậu
cần khoa phân phối theo chế độ nhu yếu phẩm hàng tháng cho hai anh em: -Anh cầm
về cho các cháu. Mở miếng vải dù pháo sáng, anh nói „ Xin chú“ rồi gói cẩn thận
hộp bánh buộc sau yên xe đạp. Chiếc xe đạp khung Sterling cũ kỹ tróc sơn đen
bóng nhưng vững chãi, líp kêu ro ro, tịnh không khi nào thấy cọt kẹt hay dơ
vênh.
Con đường từ Đinh Xá tới làng Thanh Lãng
theo hướng Hương Canh khoảng 5-6 Km. Buổi sáng trời còn rét nên đường làng tĩnh
lặng. Khoảng hơn 10 giờ khi trời hửng
lên thì từ hướng Tây dội về một tiếng nổ lớn. Theo thói quen thời chiến, ngoài
ngõ có ai đấy kêu lên: Máy bay Mỹ ném bom gần quá!
12 giờ, cô Thế văn thư của khoa chạy
sang nhà bộ môn chúng tôi đóng quân vừa khóc vừa nói: Bác Thanh hy sinh rồi. Đạn
nổ ở khu đồng Sáo làng Thanh Lãng!...
Một hố nổ lớn
sâu hơn hai mét. Bụi tre già xơ xác, nghiêng ngả không còn lá… Tôi mếu máo rồi
òa khóc lịm đi. Hơn 30 sỹ quan giáo viên của khoa Cơ điện cùng các giáo viên của
khoa Công trình xếp hàng ngang, dò từng bước tìm gọi anh Phan Thanh.
Người Anh hùng
ra đi rất nhẹ nhàng. Anh còn để lại nhiều dự định khoa học, nhiều việc chưa kịp
làm cho đơn vị, cho bản thân và gia đình. Hôm ra đi, anh đã không kịp về thăm
thằng con đang sốt nhưng nhiệm vụ khai
thác khoa học trong lĩnh vực vũ khí đạn của Mỹ, việc tổng kết những kết quả
nghiên cứu thành lý luận, sưu tầm những hình mẫu làm giáo cụ trực quan cho giảng
dạy đào tạo kỹ sư quân sự tương lai thì kế tiếp anh, chúng tôi đã nỗ lực thực hiện. 20 năm sau
ngày anh Thanh ra đi, bộ môn Đạn phát triển với đội ngũ giáo viên hàng chục người, trang thiết bị giảng dạy như khu kỹ thuật thực
hành, phòng trưng bày mẫu các hệ đạn rất
đầy đủ và khang trang. Hàng chục khóa kỹ
sư ngành Vũ khí- Đạn đã được đào tạo ra trường, đáp ứng kịp thời cho kháng chiến
chống Mỹ và bảo đảm kỹ thuật trong toàn quân. Lý thuyết và ứng dụng loại vật liệu
áp điện để chế tạo những cơ cấu ngòi kích
nổ nhanh, thời kỳ những năm 1960-1970 còn là mới mẻ, tuyệt mật ( đến nỗi phía Mỹ
phải bảo mật bằng chế độ chống tháo) thì đến nay đã trở nên phổ biến, được ứng
dụng nhiều trong trang bị vũ khí của bộ đội.
Năm 2008, anh
Phan Thanh được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Trong những dịp
gặp gỡ, trao đổi về cái chết của anh
Thanh, có người hỏi tôi: Anh Thanh hy sinh vì tháo đạn Mỹ nên được truy tặng
Anh hùng? Những câu hỏi như thế, làm tôi
nhói đau. Tôi không nghĩ như vậy. Những cán bộ khoa học quân sự đúng là thường
phải đối đầu với sự sống còn. Nhiều trường hợp vì nhiệm vụ họ phải trả giá bằng
sinh mạng nhưng không phải vì họ chết mà
được phong Anh hùng. Hàng trăm nghìn các cán bộ khoa học về vũ khí-đạn vẫn
rất an toàn khi làm việc. Trường hợp mất mát như của anh Thanh chỉ là rủi ro,
là tai nạn nghề nghiêp không ai muốn. Anh hùng quân đội Nguyễn Phan Thanh là Anh
hùng Giáo viên, một nhà khoa học làm việc trong lĩnh vực giáo dục đào tạo về kỹ
thuật quân sự ở bậc đại học. Giá trị
chiến công của anh chính là dùng cả cuộc đời- kể cả khi phải cống hiến sinh mạng
- vẫn đau đáu vì lý tưởng: Khai thác nghiên cứu khoa học để phục vụ cho sự nghiệp
đào tạo các kỹ sư khoa học quân sự tương lai. Ngoài ra là người có dịp được sống
gần gũi anh, tôi còn thấy ở anh sự khác biệt nổi trội về bản lĩnh, sự tự tin và lòng dũng cảm của một
nhà khoa học chân chính. Anh đã chủ trì việc giảng dạy và đào tạo ra khóa kỹ sư
đạn đầu tiên của ĐHKTQS để kịp thời chi viện cho chiến trường Miền Nam Anh không chịu dừng bước trước những thách đố
kiến thức từ phía đối thủ. Anh tập trung mọi khả năng và điều kiện để giải quyết
vấn đề, chinh phục kiến thức.
***
Berlin-Mùa hè
năm 2009. Cháu Nguyễn Trọng Thu đưa vợ con từ Dusseldoorf đến thăm tôi. Cậu con
trai bé bỏng của anh Thanh 40 năm trước, giờ là một kỹ sư. Cháu Thu cùng vợ con định cư
tại Đức. Vợ chồngThu mở một văn phòng tư vấn và làm ăn rất hiệu quả. Ôm thằng
con nhỏ của Thu trong lòng, tôi không sao cầm được nước mắt. Thương nhớ về anh
Phan Thanh làm câu chuyện giữa chú cháu cứ nhát ngừng và rất bùi ngùi. Thằng bé
ôm cổ ông chốc chốc lại đòi nhoài sang với bố. Tôi để ý, thấy cách cháu Thu chiều
con rất giống với cách mà anh Thanh chiều nó khi xưa . Tôi hỏi thăm cháu Thu về
sức khỏe và cuộc sống của chị Quý mẹ
cháu, hỏi xem mỗi lần về Việt nam cháu có đến thăm lại Thanh
Lãng không. Trong những câu Thu hỏi
tôi về sự hy sinh của bố, cháu quan tâm đến nơi anh Thanh đang yên nghỉ và ngôi mộ của
anh Thanh.
Dịp gần nhất tôi
về lại Thanh Lãng, thấy làng quê đã thay đổi rất nhiều. Con đường đất giữa đồng
ngày xưa bây giờ là đường nhựa thẳng tắp. Hàng phi lao trồng quanh nghĩa trang
liêt sỹ chắc đã thay đến hai ba đợt nhưng lá cây vẫn reo rì rào. Để trả lời cho cháu Thu, tôi nghĩ,
hơn 40 năm đã qua đi, điều mà khi xây
ngôi mộ cho anh Thanh, anh em giáo viên của khoa Vũ khí-Đạn thời đó hẹn với nhau sẽ giữ kín, không bao giờ nói ra thì bây giờ trước cậu con trai trưởng thành của anh
Thanh, tôi nghĩ mình phải nói cho cháu
biết, vì sao ngôi mộ của anh Thanh chúng
tôi lại ví như ngôi Mộ Gió của những anh hùng khi xưa, họ hy sinh ngoài biển
khơi, hải đảo để bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ Tổ quốc. Họ mãi mãi không về nên nhân
dân nơi đất liền đã dựng những ngôi Mộ
Gió không có hài cốt để ghi nhớ công ơn họ.
-…Bố cháu ra đi
sau tiếng nổ của quả đạn pháo127mm ở làng Thanh Lãng…Hơn 30 sỹ quan giáo viên của
khoa Cơ điện và các giáo viên của khoa Công trình xếp hàng ngang, dò từng bước
tìm gọi anh Phan Thanh…Trong tiếng nấc nghẹn lòng của đồng đội và dân làng, các cô chú chỉ gom nhặt được một phần rất ít thi
thể của bố cháu... Xương cốt của bố
Thanh đã tan hòa vào Trời Đất.
Sau lễ truy điệu
trước thi hài tượng trưng gói bằng vải
mưa đặt trong tiểu sành có phủ quân kỳ của
liệt sỹ Nguyễn Phan Thanh, nghẹn trong
tiếng than khóc tiếc thương của chị Quý và đồng bào thôn Thanh Lãng, ban
chỉ huy khoa Trang bị Cơ điện quyết định phải tiến hành ngay việc xây mộ. 200 viên gach và một tạ ximang được nhóm các
anh Trần Tam, Hoàng Hải, Nguyễn văn Đại trực tiếp thi công. Tôi không được phân
công trong nhóm xây dựng nhưng suốt ngày quanh quẩn xem các anh làm việc. Việc
gần xong, anh Tam bảo tôi: Ông Thanh chết ở đất Thanh Lãng thì mộ đặt trong
nghĩa trang liệt sỹ Thanh Lãng. Mộ sâu,
xây chắc để Ông ấy mãi mãi ở đây với dân làng. Đại học Kỹ thuật Quân sự đóng quân
trên địa bàn Vĩnh Yên rất gần với Hương Canh cũng là cách thuận tiện để Ông Thanh thường xuyên đi về với Bộ môn.
Ông ấy vắng nhưng không xa.
***
Năm 1988, tôi rời
Học viện Kỹ thuật Quân sự đi nhận công tác khác. Hơn 20 năm ở học viện, tôi đã trải qua nhiều kỷ niệm vui buồn.
Tôi hãnh diện vì đã có thời gian được sống và làm việc bên cạnh một người Anh hùng. Tôi rất xúc
động mỗi khi nghĩ về sự hy sinh của anh ấy. Nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành
lập Học viện Kỹ thuật Quân sự, tưởng nhớ tới anh Nguyễn Phan Thanh tôi ghi lại
những kỷ niệm về anh để các bạn trẻ thế hệ sau chia sẻ và biết về những khó
khăn gian khổ trong chiến tranh thời học viện mới thành lập. Tôi cũng
muốn nói với các bạn trẻ rằng: Lớp đàn anh, cha chú chúng tôi hồi ấy bây giờ đã nghỉ hưu, nhiều người khuất
bóng vì tuổi tác, bệnh tật nhưng chúng
tôi luôn rất tự hào về thời trai trẻ của mình. Chúng tôi đã vượt qua mọi khó
khăn thử thách để cống hiến hết sức mình
cho sự nghiệp giảng dạy, đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự của quân đội,
góp phần vào sự phát triển lớn mạnh của
Học viện-Kỹ thuật-Quân sự hôm nay.
( Trần
đình Ngân – Nguyên giáo viên Bộ môn Đạn thời kỳ 1968-1988 )
Nhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóa