Nguyễn Hữu Nghị
Học viên Hữu tuyến khóa 6
Đây cũng là năm đầu tiên trường Quân sự trực tiếp tuyển sinh phổ thông.
Có nhiều bạn học tại “trường chuyên” ở các tỉnh trên miền Bắc cũng được tuyển
chọn. Lúc tập trung nhập ngũ tại QK Thủ đô, tôi gặp nhiều bạn Trỗi cùng khoá:
Phạm Ngọc Chỉnh, Vũ Việt, Lê Minh Chính, Vũ Biên Hoà, Vũ Điện Biên, Nguyễn Văn
Hoà (còm), Trần Đăng Sơn, Trần Tuấn Quảng, Nguyễn Anh Minh, Thắng “híp”, Sơn
“Tu la”, Chí Hùng, Gia Bình, Phạm Hoà Bình, Nguyễn Trọng Vinh Quang, Ngô Sơn,
Nguyễn Việt Sơn, v.v...
Sau kỳ thi, một số bạn chuyển về Đại học Quân y, một số thiếu điểm chuyển
về các đơn vị phòng không bảo vệ miền Bắc; còn lại học với nhau tại trường Quân
sự. Hết năm học thứ nhất, một số bạn được chọn đi Tây, số còn lại tiếp tục học
tập tại trường.
Khoá 6 lúc ban đầu gồm hai đại đội C163 và C164. Hết hai năm cơ bản thì chia ra các trung đội học theo ngành Cơ
khí, Vô tuyến điện và Công trình. Các bạn Trỗi học cùng khoa Vô tuyến có Lê
Minh Chính, Trọng Quang học lớp Vô tuyến, Dũng Minh, Phạm Minh Đạo, Vũ Việt và Nguyễn Hữu
Nghị lớp Hữu tuyến. Chúng tôi chơi với nhau, ăn cơm cùng mâm và động viên, giúp
đỡ nhau học tập trong suốt thời gian ở
trường.
Khoá 6 đã tham gia vào nhiều sự kiện lớn của trường: khai thác sặt trên
núi Tam Đảo để xây dựng trường (năm 1972), đi khắc phục hậu quả giặc Mỹ ném bom tại Khâm Thiên, Hà Nội (đầu năm
1973), duyệt binh mừng ngày tên lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam (ngày 1/5/1973)
và tiếp quản miền Nam sau ngày giải phóng.
Ở đâu và bất kỳ thời điểm nào, lính Trỗi cũng hăng hái đi đầu và hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
Khai thác sặt
Sặt là một loại cây rừng, thuộc họ tre, trúc. Khai thác sặt là một nhiệm
vụ gian nan và vất vả. Nhưng với chúng tôi, được học làm “tiều phu” từ lúc còn
bé nên công việc không khó khăn cho lắm -
vì đã quen cầm dao quắm, chặt cây, đốn củi từ hồi trường Trỗi ở Thái
Nguyên (1965-1966).
Sáng dậy sớm, vệ sinh cá nhân, ăn bữa chính xong rồi nhận một gói cơm nắm
cho bữa trưa. Đúng 6 giờ, lên đường.
Tôi hay cùng Vũ Việt, đi sâu vào rừng, leo dốc dựng đứng để lên tới đỉnh
núi Tam Đảo. Từ cửa rừng vào chỗ khai thác mất chừng 2–3 tiếng. Tiêu chuẩn được
giao: mỗi bó sặt phải từ 15 – 20 cây trở lên, mỗi cây dài 4–5m , đường kính gốc
5–6cm. Phải biết chọn cây và chặt, phát cành và bó lại. Sau 2 tiếng thì công việc
hoàn thành.
Hai đứa giở cơm nắm ra ăn, tếu táo kể chuyện hồi bé ở rừng Đại Từ rồi
ngả lưng nằm nghỉ một lúc thì “hạ sơn”. Nhiều hôm hết nước đành vục nước suối
uống cho đỡ khát. Trên vai là bó sặt nặng, đường rừng khấp khểnh chúng tôi nối đuôi
nhau trở về.
Ở những đoạn dốc cao dựng đứng thì bó sặt và người như dính vào nhau
cùng lao xuống núi. Biết là rất nguy hiểm nhưng vì quán tính quá lớn nên đành
phải làm vậy. Đoạn mệt nhất là đoạn cuối cùng, đường tuy bằng phẳng nhưng lại
quá dài (đến 2km), bó sặt nặng đã làm cho sức cùng lực kiệt. Khoảng 4 giờ chiều
về đến bãi sặt. Vứt bó sặt cái rầm rồi chạy nhanh ra suối tắm. Thật là sung sướng
vì một ngày làm việc đã kết thúc!
Thời gian cứ thế trôi qua, chúng tôi đã trở thành “thổ công” của vùng rừng
Tam Đảo. Dân địa phương, lúc ban đầu, còn chỉ dẫn cho chúng tôi; nay muốn kiếm
mấy cây sặt để sửa nhà cũng đành phải theo sau mấy anh đeo quân hàm “sơ mít”.
Sau đợt này, chúng tôi trở về trường.
Khâm Thiên năm 1972
Giữa năm 1972, sau đợt khai thác sặt trở về, chúng tôi chuẩn bị bước vào
năm học mới. Vào học chưa được bao lâu, chúng tôi được lệnh hành quân - di chuyển gấp ra khỏi khu vực núi
Trống, ngay trong đêm. Gói gọn quần áo, nhét sách vở vào trong ba-lô, khoác súng
trên vai chúng tôi ra tập trung. Lúc đó đã gần 12 giờ đêm. Tranh thủ lúc tập
trung, tôi tạt qua chia tay các bạn chuẩn bị đi học ở Ba Lan (Trọng Quang, Sơn
“Tu la”…). Chúng tôi hành quân bộ suốt đêm, qua thị trấn Hương canh, tiến thẳng
ra phía bờ sông Hồng. Đến xã Yên Thư, bộ phận tiền trạm đã chuẩn bị trước với
xã nên dẫn từng tiểu đội vào đến nhà dân. Mệt, không thèm rửa chân tay, chúng tôi lăn ra ngủ.
Ngay trưa hôm sau, khi đang ăn cơm, thấy máy bay Mỹ quần đảo và ném
bom xuống một vùng cách chỗ chúng tôi vừa
rời đi không xa. Mọi người lo lắng không hiểu máy bay Mỹ ném bom xuống đâu? Đến
chiều, tốp các bạn đi học ở Ba Lan hành quân đến, thông báo: máy bay Mỹ ném bom
xuống khu vực đóng quân cũ của trường, cạnh núi Trống, nhưng không gây thiệt hại
gì ngoài một con bò bị trúng bom gãy chân. Vậy là nhờ có thông tin chính xác
của quân báo mà chúng tôi bảo toàn được
lực lượng.
Những ngày cuối năm 1972, giặc Mỹ điên cuồng ném bom B52 xuống Hà nội.
Việc học tập tạm dừng. Chúng tôi bắt tay vào đào hầm và luôn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Ngồi
trên đê sông Hồng, nhìn về phía Hà nội, nghe thấy tiếng bom rền mà lòng thấp
thỏm, lo lắng; nhưng thật sung sướng khi thấy tên lửa và đạn pháo bắn lên dày đặc,
nhất là khi thấy những mảnh xác máy bay B52 cháy, tung toé trên bầu trời, chúng
tôi hét hò ầm ĩ.
Sau ngày 26 tháng 12, chúng tôi được lệnh trở về Hà nội cứu dân,
khắc phục hậu quả ném bom B52. Nhưng chỉ vào Hà Nội vào ban đêm, còn ban ngày
rút ra ngoài. Trước khi rời Yên Thư, hai
bà mẹ già là chủ nhà đã làm một bữa cơm tiễn tôi và Quý Sơn. Coi chúng tôi như
con cháu trong nhà, các cụ dặn dò rất cẩn thận,. Thật cảm động vì sự thương
yêu, đùm bọc của nhân dân! Chuẩn bị xong xuôi, chúng tôi hành quân về tập kết
bên kia sông Hồng, thuộc địa phận Sơn Tây.
Sau thất bại nặng nề của chiến dịch ném
bom Hà Nội bằng B52, Mỹ phải tuyên bố xuống thang, chấm dứt ném bom. Kế hoạch
của chúng tôi cũng thay đổi. Xe ô tô đưa chúng tôi đến Ngõ Chợ Khâm thiên và
trú nhờ trong một ngôi trường nhỏ. Quang cảnh hết sức đau thương. Chỉ dãy nhà
ngoài phố là còn nguyên vẹn. Sau một dãy nhà - tất cả đã bình địa. Ngổn ngang
đổ nát. Chúng tôi được phân công dọn dẹp ở sau rạp chiếu bóng Dân Chủ. Mùi dầu
xả và mùi da thịt cháy sém, bốc lên mùi
hôi thối bám lấy chúng tôi suốt ngày. Chúng tôi lao vào dọn dẹp đường phố, đào
bới nhưng nơi nghi còn xác người, đắp đường vào nhà cho dân. Chúng tôi làm việc
không biết mệt mỏi.
Một hôm, tiểu đội do Quý Sơn làm tiểu
đội trưởng (có tôi và Vũ Việt là hai lính Trỗi), nhận lệnh đi đào bom nổ chậm.
Chúng tôi hành quân từ Ô Chợ Dừa, qua
Ngã Tư Sở lên phía Cầu Mới rồi rẽ trái men theo sông Tô Lịch. Trước mặt
là một hố bom lớn, miệng rộng khoảng
15m, sâu đến 10m, có dạng phễu. Một đơn
vị dân quân tự vệ đang đào bới nhưng không ai biết đây là lọai bom gì. Nghe nói
bom do máy bay F-111 bị bắn rát nên thả vội xuống để chuồn. Chúng tôi phân công
nhau vào vị trí. Cánh dân quân tự vệ nhường chỗ cho anh em bộ đội. Cả tiểu đội
xuống đáy hố bom, khẩn trương đào và chuyển đất lên. Không ai nói với ai một
lời. Cho đến hết ngày nhưng vẫn chưa thấy quả bom. Ngày hôm sau, tiểu đội lại nhận nhiệm vụ khác. Không rõ có
ai đào được quả bom đấy không?
Hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi trở lại
trường nhận nhiệm vụ mới: Tham gia duyệt binh mừng ngày tên lính Mỹ cuối cùng
rút khỏi Việt Nam .
Chúng tôi lại lên đường…
Hà Nội 15/10/2005
N.H.N
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nếu chưa đăng kí, bạn vẫn có thể để lại nhận xét: Viết xong, nên để lại tên hoặc nickname. Xuống "Chọn 1 nhận dạng" vào "Ẩn danh". Sau đó xuất bản nhận xét.